CHẾ ĐỘ NGHỈ DƯỠNG SỨC SAU SINH 2025: Lao động nữ được nghỉ từ 5–10 ngày nếu chưa hồi phục sức khỏe sau sinh, mức trợ cấp 702.000đ/ngày, thủ tục nộp trong vòng 7 ngày.
Khoản 1 Điều 60 Luật Bảo hiểm xã hội 2024 quy định: Trong thời gian 30 ngày kể từ ngày hết thời gian nghỉ việc hưởng chế độ thai sản, lao động nữ chưa phục hồi sức khỏe thì được nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ.
Cụ thể, lao động nữ được nghỉ thai sản trước và sau khi sinh con là 06 tháng; thời gian nghỉ trước khi sinh không quá 02 tháng. Trường hợp lao động nữ sinh đôi trở lên thì tính từ con thứ 02 trở đi, cứ mỗi con, người mẹ được nghỉ thêm 01 tháng.
Theo khoản 2 Điều 60 Luật Bảo hiểm xã hội, thời gian nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau sinh của lao động nữ do người sử dụng lao động và Ban Chấp hành công đoàn cơ sở quyết định.
Thời gian nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe tối đa được quy định như sau:
- 10 ngày đối với lao động nữ sinh một lần từ hai con trở lên;
- 07 ngày đối với lao động nữ sinh con phải phẫu thuật;
- 05 ngày đối với trường hợp khác.
Lưu ý:
Thời gian nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe liên tục bao gồm cả ngày nghỉ lễ, tết, ngày nghỉ hằng tuần. Trường hợp có thời gian nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe từ cuối năm trước chuyển tiếp sang đầu năm sau thì thời gian nghỉ đó được tính cho năm trước.
Khoản 3 Điều 60 Luật Bảo hiểm xã hội quy định mức hưởng cho một ngày nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau thai sản bằng 30% mức tham chiếu.
Tiền nghỉ dưỡng sức sau sinh = 30% x Mức tham chiếu x Số ngày được nghỉ
Hiện nay, mức lương cơ sở đang áp dụng là 2.340.000 đồng/tháng theo Nghị định 73/2024/NĐ-CP.
Điều 63 Luật Bảo hiểm xã hội quy định về giải quyết hưởng trợ cấp dưỡng sức, phục hồi sức khoẻ sau thai sản như sau:
- Trong thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày người lao động nghỉ việc hưởng trợ cấp dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau thai sản, người sử dụng lao động lập danh sách người lao động nghỉ việc hưởng trợ cấp dưỡng sức, phục hồi sức khỏe sau thai sản và nộp cho cơ quan bảo hiểm xã hội.
- Trong thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày nhận danh sách theo quy định, cơ quan bảo hiểm xã hội có trách nhiệm giải quyết; trường hợp không giải quyết thì phải trả lời bằng văn bản và nêu rõ lý do.