Trong khoa học pháp lý hình sự hiện đại, quan điểm về thi hành án phạt tù đã chuyển dịch từ trừng phạt thuần túy sang mục đích giáo dục, cải tạo và tái hòa nhập cộng đồng. Mặc dù phạm nhân là người bị tước quyền tự do, nhưng họ không bị tước đi quyền được bảo hộ về tính mạng, sức khỏe và quyền được chết một cách nhân phẩm. Sự kiện một phạm nhân tử vong trong thời gian chấp hành án là một sự biến pháp lý đặc biệt nghiêm trọng. Nó không chỉ chấm dứt trách nhiệm hình sự của cá nhân đó mà còn kích hoạt một loạt các trách nhiệm giải trình của Nhà nước về nguyên nhân cái chết, quy trình xử lý thi thể và các chế độ an sinh cho thân nhân. Điều 56 Luật Thi hành án hình sự 2019 sửa đổi, bổ sung 2025 là văn bản quy phạm pháp luật quy định thủ tục giải quyết trường hợp phạm nhân chết trong trại giam, thủ tục này được thể hiện qua các nội dung dưới đây.
Giai đoạn đầu tiên khi phát hiện phạm nhân tử vong không phải là mai táng, mà là điều tra. Đây là yêu cầu bắt buộc của nguyên tắc pháp chế nhằm đảm bảo không có sự lạm quyền, tra tấn, nhục hình hay thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng trong các cơ sở giam giữ.
Căn cứ khoản 1 Điều 56 Luật Thi hành án Hình sự quy định như sau:
"1. Khi phạm nhân chết tại trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp xã, cơ sở khám bệnh, chữa bệnh của Nhà nước thì cơ quan, tổ chức đó có trách nhiệm báo ngay cho cơ quan điều tra và Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, cơ quan điều tra và Viện kiểm sát quân sự khu vực nơi có phạm nhân chết để xác định nguyên nhân. Trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp xã làm thủ tục đăng ký khai tử tại Ủy ban nhân dân cấp xã nơi phạm nhân chết và thông báo cho thân nhân hoặc đại diện của phạm nhân trước khi làm thủ tục mai táng. Trường hợp phạm nhân chết ở cơ sở khám bệnh, chữa bệnh thì cơ sở khám bệnh, chữa bệnh đó gửi giấy báo tử cho trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp xã.
Trường hợp phạm nhân là người nước ngoài, Giám thị trại giam phải báo ngay cho cơ quan điều tra và Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh, cơ quan điều tra và Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu nơi có phạm nhân chết để xác định nguyên nhân; đồng thời báo cáo cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ Công an hoặc cơ quan quản lý thi hành án hình sự thuộc Bộ Quốc phòng, Bộ Ngoại giao để thông báo cho cơ quan đại diện của nước mà người đó mang quốc tịch. Sau khi được cơ quan có thẩm quyền cho phép, trại giam có trách nhiệm tổ chức mai táng."
Quy định về xử lý trường hợp phạm nhân tử vong tại trại giam, trại tạm giam hoặc cơ sở khám chữa bệnh thể hiện sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan thi hành án hình sự, cơ quan điều tra và Viện kiểm sát, đồng thời bảo đảm quyền lợi pháp lý của thân nhân phạm nhân. Khi phạm nhân chết, cơ quan nơi xảy ra sự việc phải ngay lập tức báo cáo cơ quan điều tra và Viện kiểm sát cấp huyện hoặc quân sự để xác định nguyên nhân tử vong, đảm bảo minh bạch và khách quan trong điều tra. Đồng thời, trại giam, trại tạm giam hoặc cơ quan thi hành án hình sự cấp huyện phải thực hiện thủ tục đăng ký khai tử tại Ủy ban nhân dân cấp xã và thông báo cho thân nhân hoặc đại diện phạm nhân trước khi tiến hành mai táng, nhằm bảo vệ quyền lợi pháp lý và đảm bảo trật tự, quy trình pháp lý.
Trường hợp phạm nhân tử vong tại cơ sở khám chữa bệnh, cơ sở đó phải gửi giấy báo tử cho cơ quan thi hành án để thực hiện các bước tương tự. Đối với phạm nhân là người nước ngoài, quy trình được mở rộng với việc báo cáo lên cơ quan điều tra và Viện kiểm sát cấp tỉnh, đồng thời thông báo cho Bộ Công an, Bộ Quốc phòng và Bộ Ngoại giao để thông báo cho cơ quan đại diện của nước sở tại, đảm bảo tuân thủ luật quốc tế và quyền lợi ngoại giao. Sau khi được cơ quan có thẩm quyền cho phép, trại giam chịu trách nhiệm tổ chức mai táng, bảo đảm sự tôn nghiêm và phù hợp với quy định pháp luật.
Trong toàn bộ quy trình này, sự hiện diện của Viện kiểm sát (VKS) là yếu tố để đảm bảo công lý. Kiểm sát viên phải có mặt từ khi khám nghiệm hiện trường, khám nghiệm tử thi cho đến khi có kết luận giám định. Nếu VKS phát hiện dấu hiệu che giấu tội phạm (ví dụ: trại giam báo cáo chết do bệnh nhưng thi thể có nhiều vết bầm tím), VKS có quyền yêu cầu khởi tố vụ án hình sự để điều tra hành vi "Dùng nhục hình" hoặc "Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng".
Căn cứ khoản 2 Điều 56 LTHAHS quy định về thời hạn thông báo như sau:
"2. Khi cơ quan có thẩm quyền cho phép làm các thủ tục mai táng người chết thì trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp xã có trách nhiệm thông báo về việc mai táng cho thân nhân hoặc người đại diện của phạm nhân. Trường hợp thân nhân của người chết có đơn đề nghị thì bàn giao tử thi đó cho họ, trừ trường hợp có căn cứ cho rằng việc đó ảnh hưởng đến an ninh trật tự và vệ sinh môi trường. Sau thời hạn 24 giờ kể từ khi thông báo mà họ không nhận thì trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp xã tổ chức mai táng theo quy định của pháp luật và thông báo cho Tòa án đã ra quyết định thi hành án. Trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày nhận được thông báo, Tòa án đã ra quyết định thi hành án phải ra quyết định đình chỉ việc chấp hành án phạt tù và gửi cho thân nhân của người chết, trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp xã nơi phạm nhân chết, Viện kiểm sát có thẩm quyền, Sở Tư pháp nơi Tòa án ra quyết định đình chỉ có trụ sở. Ủy ban nhân dân cấp xã nơi phạm nhân chết có trách nhiệm phối hợp với trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp xã trong việc mai táng và quản lý mộ của phạm nhân. Kinh phí cho việc mai táng được Nhà nước cấp.
Trường hợp phạm nhân chết là người nước ngoài, trong thời hạn 48 giờ kể từ khi thông báo về phạm nhân chết, nếu cơ quan đại diện của nước mà người đó mang quốc tịch không đề nghị nhận tử thi thì trại giam tổ chức mai táng."
Quy định pháp luật về mai táng phạm nhân nêu rõ trại giam, trại tạm giam hoặc cơ quan thi hành án phải thông báo cho thân nhân hoặc người đại diện trước khi tiến hành mai táng, cung cấp đầy đủ thông tin pháp lý về nguyên nhân tử vong, địa điểm quàn thi thể và quyền nhận tử thi. Nếu thân nhân không nhận trong 24 giờ đối với phạm nhân Việt Nam hoặc 48 giờ đối với phạm nhân nước ngoài, trại giam sẽ tổ chức mai táng theo quy định, đồng thời thông báo cho Tòa án và các cơ quan liên quan.
Nhà nước chi trả kinh phí mai táng, và Ủy ban nhân dân cấp xã phối hợp quản lý mộ. Quy định này vừa bảo đảm quyền lợi thân nhân vừa đáp ứng yêu cầu y tế công cộng và bảo vệ môi trường, đặc biệt tại các trại giam thiếu cơ sở vật chất bảo quản thi thể. Đối với phạm nhân nước ngoài, thời hạn 48 giờ cho phép xử lý thông tin qua kênh ngoại giao, nhưng vẫn đặt ra thách thức về vận chuyển quốc tế, trong khi việc linh động hỗ trợ bảo quản thi thể phụ thuộc vào yêu cầu và chi phí từ phía nước ngoài.
Đây là nội dung thể hiện rõ nhất tính nhân văn của pháp luật, cho phép gia đình thực hiện nghĩa tử với người đã khuất, nhưng quyền này không phải là tuyệt đối mà bị giới hạn bởi lợi ích công cộng. Căn cứ khoản 3 Điều 56 LTHAHS quy định: "Trường hợp thân nhân hoặc đại diện của phạm nhân có đơn đề nghị được nhận tử thi hoặc hài cốt của phạm nhân và tự chịu chi phí, thì trại giam, trại tạm giam, cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện có thể xem xét, giải quyết, trừ trường hợp có căn cứ cho rằng việc đó ảnh hưởng đến an ninh, trật tự và vệ sinh môi trường. Việc nhận hài cốt chỉ được giải quyết sau thời hạn 03 năm kể từ ngày mai táng. Trường hợp phạm nhân là người nước ngoài thì việc nhận tử thi hoặc hài cốt phải được cơ quan quản lý thi hành án hình sự xem xét, quyết định."
Quy định này nêu rõ quyền và giới hạn của thân nhân hoặc đại diện phạm nhân trong việc nhận tử thi hoặc hài cốt. Cụ thể, nếu có đơn đề nghị và tự chịu chi phí, trại giam, trại tạm giam hoặc cơ quan thi hành án hình sự Công an cấp huyện có thể xem xét và giải quyết yêu cầu, trừ khi việc này được xác định có thể ảnh hưởng đến an ninh, trật tự hoặc vệ sinh môi trường. Thời điểm nhận hài cốt của phạm nhân được quy định ít nhất sau 03 năm kể từ ngày mai táng, nhằm đảm bảo ổn định trật tự và quản lý mộ phần.
Đối với phạm nhân người nước ngoài, quyền nhận tử thi hoặc hài cốt phải được cơ quan quản lý thi hành án hình sự xem xét và ra quyết định, phản ánh việc điều chỉnh theo bối cảnh quốc tế, đồng thời bảo đảm sự phối hợp với các cơ quan ngoại giao và tuân thủ các quy định về an ninh, trật tự, vệ sinh môi trường. Quy định này vừa thể hiện tính nhân văn khi cho phép thân nhân được nhận tử thi, vừa cân bằng yêu cầu quản lý an ninh và y tế trong môi trường trại giam.
Qua đó, Điều 56 Luật Thi hành án hình sự 2019 sửa đổi, bổ sung 2025 quy định đầy đủ và chặt chẽ về thủ tục xử lý trong trường hợp phạm nhân chết, bảo đảm việc giải quyết diễn ra minh bạch, đúng pháp luật và tôn trọng nhân phẩm của người đã mất. Theo đó, khi phạm nhân tử vong tại cơ sở giam giữ hoặc cơ sở y tế, các cơ quan liên quan phải kịp thời thông báo cho cơ quan điều tra và Viện kiểm sát để xác định nguyên nhân, đồng thời thực hiện đăng ký khai tử và thông báo cho thân nhân trước khi tiến hành mai táng. Đối với phạm nhân là người nước ngoài, quy trình thông báo và xin ý kiến còn được mở rộng đến cơ quan đại diện ngoại giao.
Sau khi được phép thực hiện mai táng, cơ quan thi hành án phải ưu tiên bàn giao tử thi cho thân nhân nếu có yêu cầu và không ảnh hưởng đến an ninh, trật tự, môi trường; nếu không có người nhận trong thời hạn luật định thì tổ chức mai táng theo kinh phí Nhà nước và thông báo cho Tòa án để đình chỉ việc chấp hành án. Việc nhận hài cốt chỉ được thực hiện sau ba năm kể từ ngày chôn cất, và với phạm nhân là người nước ngoài thì quyết định thuộc thẩm quyền cơ quan quản lý thi hành án hình sự. Quy định này thể hiện sự phối hợp nghiêm ngặt giữa các cơ quan và sự nhân văn trong việc bảo đảm quyền, lợi ích hợp pháp của thân nhân người chết cũng như trách nhiệm của Nhà nước đối với trường hợp phạm nhân tử vong.